Nông sản Việt cần đầu tư công nghệ, chế biến sâu để chiếm lĩnh thị trường Hoa Kỳ
Xuất khẩu nông lâm thủy sản sang Hoa Kỳ trong năm 2023 đạt 11,1 tỷ USD, chiếm 21% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam. Dư địa xuất khẩu nông sản sang thị trường Hoa Kỳ còn rất lớn, tuy nhiên doanh nghiệp cần xây dựng, quảng bá nông sản mang thương hiệu Việt để vươn tầm thế giới…
Xoài là một trong những trái cây của Việt Nam đã thâm nhập được vào thị trường Hoa Kỳ.
Ngày 4/1/2024 tại TP.HCM, Trung tâm Nghiên cứu phát triển Thương hiệu Việt, Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam phối hợp với Hiệp hội doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam cùng các cơ quan, đơn vị, Hiệp hội trong nước và nước ngoài tổ chức “Diễn đàn xúc tiến thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ”.
DƯ ĐỊA CHO NÔNG SẢN TẠI THỊ TRƯỜNG HOA KỲ CÒN NHIỀU
Phát biểu tại Diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến, cho biết xuất khẩu nông lâm thủy sản sang Hoa Kỳ trong năm 2023 đạt 11,1 tỷ USD, chiếm 21% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam. Năm 2022, Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất của xuất khẩu nông lâm thủy sản từ Việt Nam, với kim ngạch 13,3 tỷ USD, chiếm 25% thị phần xuất khẩu của ngành. Tuy nhiên năm 2023, Hoa Kỳ tụt xuống vị trí thứ hai, sau Trung Quốc.
“Các sản phẩm nông sản thực phẩm Việt Nam ngày càng thâm nhập thị trường quốc tế rộng rãi, năng lực xuất khẩu ngày được nâng cao. Trong đó, Hoa Kỳ là một thị trường lớn mạnh, có sức tiêu thụ rất lớn, là mục tiêu hướng đến của nhiều doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, để xâm nhập vào được thị trường này là vấn đề thử thách đối với doanh nghiệp Việt Nam”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến: “Các sản phẩm nông sản thực phẩm Việt Nam ngày càng thâm nhập thị trường quốc tế rộng rãi, năng lực xuất khẩu ngày được nâng cao”.
Mặc dù có lợi thế về nguồn nguyên liệu dồi dào nhưng để xây dựng thương hiệu, giá trị gia tăng cho nông sản, đòi hỏi sự đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào chế biến, tăng cao năng suất, chất lượng. “Khoa học công nghệ đã góp phần quan trọng giúp tăng năng suất, sản lượng và chất lượng nông sản. Tác động của cuộc cách mạng 4.0 đã đi vào tất cả đời sống, kinh tế, xã hội. Thời gian qua, nhờ đổi mới khoa học công nghệ, áp dụng cơ giới hóa, công nghệ sinh học… ngành nông nghiệp đã có sự phát triển vượt bậc”, Thứ trưởng Tiến khẳng định.
Bà Phan Thị Mỹ Yến, Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu phát triển Thương hiệu Việt, Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam, cho hay trong 11 tháng của năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt hơn 88 tỷ USD. Nhập khẩu ước đạt 12,57 tỷ USD. Hiện nay, xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm gần 30% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Kết quả này cho thấy Việt Nam có thế mạnh tiếp cận thị trường Hoa Kỳ ngày càng dễ dàng và hiệu quả hơn.
Theo bà Yến, năm 2023 tình hình xung đột, chiến tranh và biến động kinh tế, tài chính toàn cầu diễn ra phức tạp, giao thương của các nước trên thế giới gặp nhiều khó khăn, một số lĩnh vực, ngành nghề bị ảnh hưởng năng nề, gây nhiều thiệt hại cho các nhà đầu tư kinh doanh. Trong bối cảnh khó khăn và đầy thử thách đó, xuất khẩu các loại nông sản Việt Nam vẫn tăng trưởng tích cực.
“Qua khảo sát các siêu thị tại Hoa Kỳ cho thấy, nhu cầu các loại nông sản của Việt Nam tại đây rất lớn nhưng đa số đều được tiêu thụ dưới thương hiệu của nước ngoài. Nguyên nhân do Việt Nam chủ yếu xuất khẩu nông sản thô, đóng bao lớn và không nhãn mác. Các doanh nghiệp Hoa Kỳ nhập khẩu về rồi chế biến sâu, hoặc đóng nhãn mác của họ. Đây là vấn đề trăn trở của các doanh nghiệp kinh doanh nông sản và những người làm thương hiệu tại Việt Nam”, bà Yến chia sẻ.
HAI TRIỆU NGƯỜI HOA KỲ GỐC VIỆT LÀ NGƯỜI TIÊU DÙNG NÔNG SẢN VIỆT
TS Lê Đăng Doanh, Chuyên gia kinh tế cao cấp, cho rằng cơ hội đối với nông sản Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ là rất lớn. Nhiều nông sản đặc trưng của Việt Nam như cà phê, hồ tiêu… nhưng Hoa Kỳ không có thế mạnh để sản xuất. “Đặc biệt, với 2 triệu người Mỹ gốc Việt thì đây sẽ là những bạn hàng hết sức thiện chí đối với hàng hóa nông sản Việt Nam”, TS Doanh nói.
Theo TS Lê Đăng Doanh, hàng Trung Quốc xuất sang Hoa Kỳ bị đánh thuế 270%, nhưng cũng mặt hàng ấy gắn nhãn mác Việt Nam thuế là 0%. Vì vậy, các cơ quan của Hoa Kỳ kiểm tra chặt chẽ, điều tra và có biện pháp trừng phạt đối với việc gian lận trong xuất xứ hàng hóa. TS Doanh khuyến cáo các doanh nghiệp Việt cần hợp tác thẳng thắn, công khai minh bạch với các doanh nghiệp Mỹ để nâng cao giá trị gia tăng, sẽ có lợi hơn; đồng thời, xem xét kỹ luật pháp, các điều kiện về xanh, sạch, môi trường, tái chế, chất thải, các điều kiện về sở hữu trí tuệ…
Hoa Kỳ cũng gia tăng tần suất các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa của Việt Nam (truy xét nguồn gốc bông của hàng dệt may, tránh nguy cơ bị cấm xuất khẩu, truy xét tôm có được trợ cấp…). Bên cạnh đó, tại thị trường Hoa Kỳ, doanh nghiệp Việt phải cạnh tranh với nhiều đối tác khác đến từ Nam Mỹ, châu Á, châu Phi…
“Chúng ta phải hết sức cảnh giác, không nên vì dễ dàng, thấy đây là thị trường béo bở, cứ thế xuất sang càng nhiều càng tốt, lấn át thị phần các doanh nghiệp của họ thì sẽ rất dễ bị “tuýt còi”, gây khó khăn cho việc xuất khẩu. Cho nên, phải tìm cách chế biến sâu, kết nối với các doanh nghiệp Hoa Kỳ, gắn thương hiệu của mình với thương hiệu của họ để chia phần lợi ích đối với họ, thì lúc bấy giờ mình xuất khẩu càng nhiều thì họ càng ủng hộ và không gặp những khó khăn”, TS Lê Đăng Doanh khuyến nghị.
Thông tin thêm, ông Huỳnh Minh Triết, Thương vụ Tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ tại TP Hồ Chí Minh, cho biết bên cạnh nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng của Việt Nam, Hoa Kỳ cũng là nhà cung cấp nhiều nguyên liệu phục vụ sản xuất như bông sợi, gỗ và nhiều mặt hàng khác… Hoa Kỳ cũng khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng đầu tư sản xuất tại Hoa Kỳ.
Theo ông Triết, Hoa Kỳ là thị trường tiêu dùng lớn nhất thế giới, đồng thời là “bệ phóng” để doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường khác ở châu Mỹ. Vì vậy, khi đầu tư sản xuất tại Hoa Kỳ, doanh nghiệp cũng có thể sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ để tiết kiệm chi phí và đáp ứng yêu cầu xuất xứ.